Huy động tối đa vai trò của trí thức
Thấu hiểu sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam không thể không huy động tối đa vai trò của trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình làm việc và những năm bôn ba nước ngoài, vẫn không ngừng tự học, nâng cao trình độ để tự mình trở thành một trí thức. Chính vì tinh thần cầu thị và trọng trí thức nên Nguyễn Ái Quốc đã nhận được sự cảm tình và giúp đỡ hết sức quý báu của nhiều trí thức Pháp và Việt kiều, trong đó đặc biệt phải kể đến nhà chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh.
Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, GS.TSKH. Vũ Minh Giang chia sẻ, sau khi lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thành công vào tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ tư tưởng trọng trí thức khi xây dựng Chính phủ lâm thời. Người đã quy tụ xung quanh mình rất nhiều trí thức yêu nước có tài, có đức và uy tín trong Nhân dân để cùng gánh vác việc nước. “Không phải ngẫu nhiên mà chỉ hai tháng sau lễ Tuyên ngôn Độc lập, khi mà chính quyền cách mạng non trẻ đang còn như ngàn cân treo trên đầu sợi tóc, lại phải gồng mình lên để chống đỡ với giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, tháng 11.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành thời gian đích thân đến chủ trì lễ khai giảng và trao bằng tốt nghiệp tại Đại học Quốc gia Việt Nam. Cùng tháng đó, Người đã viết trên báo Cứu quốc bài Nhân tài và kiến quốc nêu rõ quan điểm kiến thiết cần phải có nhân tài".
Một năm sau, khi cuộc chiến chống thực dân Pháp đã cận kề, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Thông lệnh Tìm người tài đức, trong đó nêu rõ: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận. Nay muốn sửa điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết. Báo cáo phải nói rõ: tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở của người đó. Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương phải báo cáo cho đủ”. Đây chẳng khác gì một chiếu cần hiền.
GS.TSKH. Vũ Minh Giang khẳng định, với tâm nguyện trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc, trong thời gian công tác ở Pháp năm 1946, Hồ Chủ tịch đã cảm hóa được nhiều trí thức tài giỏi từ bỏ cuộc sống đủ đầy, tương lai cá nhân rộng mở, về nước tham gia vào công cuộc kháng chiến cứu quốc đầy hy sinh gian khổ. Sức cảm hóa của Hồ Chủ tịch đối với trí thức không chỉ ở thái độ trọng thị mà còn là sự thấu hiểu, cảm thông. Người từng khẳng định việc dùng nhân tài không nên quá khắt khe, miễn họ có lòng trung thành với Tổ quốc, không phản bội lại quyền lợi nhân dân là có thể dùng được. Người còn chỉ đạo không được bỏ rơi những nhân tài ngoài Đảng mà phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ, thân thiết với họ, gần gũi họ để họ đem tài năng ra giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước. Đây là tư tưởng nhất quán của Người về sử dụng trí thức: Đã dùng thì phải tin, phải tin mới dùng.
Từ sự tin tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như sự quan tâm đầu tư xây dựng của Đảng và Nhà nước qua các thời kỳ, đội ngũ trí thức của nước nhà đã không ngừng phấn đấu, hăng hái tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, đưa đất nước phát triển và hội nhập quốc tế.
ST